Những ngày không quên

Bài này vốn được viết vào tháng 5 năm 2014 bằng tiếng Anh nhằm giúp một tập thể độc giả quốc tế hiểu rõ hơn về tình trạng của Việt Nam. Vào ngày 17 tháng 2, xin lại chia sẻ bài. Có một câu hỏi: Tôi đã viết bài này vài tháng trước “những ngày không quên mới” — tức những ngày sau 2 tháng 5 – khi TQ đặt giàn khoan HD981 )… Lại đọc bài và tự hỏi mình, những sự kiện trong năm qua có thay đổi gì không, hay chỉ làm cho tình trạng căng thẳng thêm?

Trong cộng đồng quốc tế, “lịch chính trị” (political calendar) ở Việt Nam gần như không được thảo luận. Dù vậy, trong bối cảnh căng thẳng khu vực đang gia tăng và các nỗ lực giải quyết căng thẳng thì thật mong manh, cả thế giới nên biết rằng tháng giêng, tháng 2, và tháng 3 mỗi năm là những tháng mà cảm xúc chính trị của người dân Việt Nam đối với Trung Quốc đặc biệt gay gắt. Hiểu rõ các lý do của điều này sẽ giúp cả thế giới hiểu rõ góc nhìn của Việt Nam đối với xu hướng bành trướng của Trung Quốc hiện nay và những khó khăn mà Hà Nội phải đối mặt trong việc xử lý chuyện đó.

Mối bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc đã trải dài hàng nghìn năm và có những bất hòa gay gắt trong hàng thế kỷ qua. Tuy nhiên, căng thẳng hiện nay giữa hai nhà nước Việt Nam và Trung Quốc mới xuất phát từ rất gần đây. Khi Bắc Kinh len lén xúc tiến thực thi các yêu sách về chủ quyền vừa thái quá vừa không có cơ sở pháp lý của mình, thì trong lịch Việt Nam, có ba ngày nổi bật lên.

Ngày thứ nhất là ngày 19/1. Vào ngày này năm 1974, quân đội Trung Hoa lục địa đã tổ chức một cuộc tấn công thảm sát và cướp những hòn đảo chính trong chuỗi đảo Hoàng Sa, nơi mà Việt Nam đã khẳng định chủ quyền suốt hàng thế kỷ, cho đến tận thời kỳ thực dân và hậu thực dân. Dù chọc điên tiết về hành vi của Bắc Kinh, sự phụ thuộc vào Trung Quốc của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm cho Tổng Bí thư Lê Duẩn khiến cho im lặng và kiềm chế trở thành gần như là lựa chọn duy nhất.

Ngày nay, 74 người lính trẻ của Việt Nam Cộng hòa, những người đã hy sinh khi bảo vệ quần đảo của Việt Nam, được coi như anh hùng dân tộc cả nước Việt Nam, nhưng không chính thức. Bất kể điều đó có khôn ngoan hay không, trước sự phẫn nộ của nhiều người Việt Nam, Hà Nội nói chung vẫn trấn áp các hoạt động tưởng niệm ở nơi công cộng.

Sau đó tới ngày 17/2. Ngày này năm 1979, Bắc Kinh tiến hành một cuộc xâm lược quy mô lớn nhưng đầy rủi ro, vào miền bắc Việt Nam. Trong một cuộc hội đàm Mỹ-Trung, Bắc Kinh tiết lộ ý định ”dạy cho Việt Nam một bài học”, xuất phát từ việc Hà Nội đem quân vào Campuchia vào năm 1978 – hành động xâm lược mà, như chúng ta có thể nhớ, nhằm lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot được Bắc Kinh hậu thuẫn. Thất bại về mặt quân sự, cuộc chiến còn gây ra cái chết vô nghĩa của hàng trăm nghìn người Việt Nam và Trung Quốc.

Trong bối cảnh của hiện nay, lúc Washington đang lo ngại về việc Trung Quốc phát triển quân sự, cần nhớ rằng sự xâm lược của Bắc Kinh vào Việt Nam phần lớn là có ý đồ ám chỉ họ sẵn sàng làm đồng minh với Mỹ để cô lập Việt Nam và để đương đầu với mối nguy từ Liên Xô mà họ nhận thức được. Thật vậy, nhiều nhà phân tích cho rằng xuất phát điểm của việc Trung Quốc hiện đại hóa quân sự như bây giờ là do một mối lo ngại mang tính hoang tưởng, ám ảnh – hậu quả của thất bại ê chề trong cuộc chinh chiến ở Việt Nam.

Ở Việt Nam, cuộc chiến xâm lược của Bắc Kinh vào năm 1979 vẫn được người ta tưởng nhớ, nhưng lại cũng không chính thức. Năm nay, không đếm được có mấy nghìn người Việt Nam đeo huy hiệu hoa sim và đặt làm hình nền trên Facebook hình ảnh bông hoa sim – vốn là loài hoa ở nơi mà hàng trăm nghìn người Việt Nam đã chết hồi đó.

Cuối cùng, chính ngày hôm nay 14/3, năm 1988, là ngày Bắc Kinh đã tiến hành cuộc bỏ thầu bất chính gần đây nhất của họ, lần này là một nỗ lực nhằm cướp đảo trong chuỗi đảo Trường Sa, kể cả những hòn đảo mà Việt Nam đã khẳng định chủ quyền lịch sử rõ ràng. Vào cái ngày đó, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa đã nã súng vào ”những người anh em xã hội chủ nghĩa” của họ trước khi đứng nhìn hàng chục người chết chìm, với một thái độ tàn ác không thể chối cãi.

Tính đến nay, số giấy báo tử chính thức của Hà Nội về vụ này vẫn dừng ở con số 64 người. Mặc dù có một số ý kiến ở Hà Nội cho rằng con số thực phải lên đến gần 200 nhân mạng. Những nhân chứng trực tiếp kể lại rằng vào cái ngày đó, quân đội Trung Quốc đã bao vây vài chục lính hải quân Việt Nam đang trôi dạt khỏi chiếc tàu bị đánh chìm của họ, xả súng bắn vào họ, không cho họ bơi đi thoát, và đứng nhìn họ chìm dần sau vài giờ.

Những vết thương đó không bị lãng quên ở Hà Nội, kể cả trong bộ mấy đảng và nhà nước; Nhưng, cũng không ai được nói tới chúng. Và cả sự phẫn nộ với lối hành xử trên biển của Bắc Kinh cũng vậy, rất ít khi được nói tới. Dù kể từ năm 1988, ngư dân Việt Nam đã thường xuyên phải đối mặt với vô số lần bị đánh đập, bắt giữ đòi tiền chuộc, bị sát hại.

Sự im lặng chính thức của Hà Nội, tại một trong những quốc gia đã chiến đấu vì độc lập dữ dội nhất thế giới, là điều đáng kể. Nó cũng thống nhất với một loạt những lý thuyết đã có từ lâu nhưng rất gây tranh cãi, về cách ứng xử với Trung Hoa như thế nào là tốt nhất. Từ một góc nhìn nọ, để giữ gìn độc lập và chủ quyền thì cần phải im lặng, phải tỏ sự tôn trọng Bắc Kinh, và phải giữ cách hành xử của ”thằng em bé nhỏ”, hay thậm chí của một nước chư hầu.

Không có gì ngạc nhiên, quan điểm này bị nhiều cộng đồng người Việt ở Việt Nam cũng như khắp nơi trên thế giới thấy rất khó chấp nhận. Quan trọng hơn, đối với Hà Nội, vào thời điểm này, có lẽ đó là một cách tiếp cận không còn tác dụng nữa.

JL

 

20 thoughts on “Những ngày không quên

  1. Chỉ một vấn đề xử lí lãnh thổ, biển đảo, nếu nhân dân Việt nam mỗi người có 1 lá phiếu , tôi chắc chắn rằng Đảng CS sẽ bị loại bỏ khỏi chính quyền trong sự thất vọng nhất của người dân hiện nay . Chẳng phải kể thêm về tham nhũng , công an đánh chết dân , hiến pháp bất công chiếm dụng đất đai của dân .

      • tôi ko biết cách hiểu của tôi có đồng với comment của giáo sư hay ko? nếu có thì rất thú vị vì nhiều người rất hay khẳng định nhưng lại ko đưa ra cách chứng minh một cách thuyết phục

        Còn cách hành xử của chinh quyền của VN hiện nay có lẽ nó là hệ quả của việc họ rút ra từ lịch sử măc dù ai cũng biết rằng thời đại hiện nay đã khác rất nhiều nhưng con người vẫn chưa ( văn minh) đến mức mà mọi người thực sự công bình và bình đẳng, bởi nếu có thì thế giới đã ko chiến tranh…. rồi , mặt khác sau khi bình thường hoá quan hệ thìnữa chính quyền hai bên đã đông ý ko nói nhiều đến cuộc chiến này nữa

        • Vâng, xin lỗi… hơi lâu mới được trả lời… cảm ơn nhiều!

  2. Chắc anh Jonathan phải dịch lịch sử quan hệ bi hài kịch Việt-Trung từ 3/2/1930 thì cộng đồng quốc tế mới hiểu rõ được?

    Cảm ơn anh nhiều!

    • Vâng, vấn đề là cho bài viết này chỉ được 700 chữ, chứ không phải là 700 trang!

  3. “…bị nhiều cộng đồng người Việt ở Việt Nam cũng như khắp nơi trên thế giới khinh bỉ.”
    Không may thay, những người “bị khinh bỉ” thường không cảm nhận được điều đó, mà vẫn lì lợm “tham quyền cố vị” vì lợi ích cá nhân, mạo danh “công lý”, “sự thật”, v.v…. Họ tạo ra một bức tranh tăm tối trên đất nước Việt Nam hiện nay.
    Sao họ không cảm thấy sự tởm lợm của người khác đối với họ?

    • Ý tôi là dùng từ despise….. có lẽ từ “khinh bỉ” là không đúng từ…

      • Đúng mà GS.
        Despise:
        – Khinh khi
        – Khinh bỉ
        – Khinh miệt
        – Xem thường
        Ngoài ra, nếu để đúng hơn, 700 “từ”, không phải “chữ”.
        “Chữ” là a; b; c;…
        “Từ” là “nước” (chẳng hạn).
        See you later.

          • – Không có gì ngạc nhiên, quan điểm này bị nhiều cộng đồng người Việt ở Việt Nam cũng như khắp nơi trên thế giới thấy rất KHÓ CHỊU.
            – Không có gì ngạc nhiên, quan điểm này bị nhiều cộng đồng người Việt ở Việt Nam cũng như khắp nơi trên thế giới thấy rất KHÓ CHẤP NHẬN. [xét theo ngữ cảnh.]
            (Theo ý tôi thôi.)

          • Dịch “despise” là “khinh bỉ” không có gì sai. Tuy nhiên muốn nói nhẹ hơn một chút thì có thể chọn “khinh thường”.

        • “từ” với “chữ” trong tiếng Việt không phân biệt rõ ràng tuyệt đối như tiếng Anh. Ví dụ Nguyễn Du đã viết “chữ tài cùng với chữ tai một vần”. Thậm chí ngày nay có ai nói “chỉ xin hai chữ bình an” thì “chữ” ở đây chính là “từ”(word), không phải là “letter”.

          • Bạn nieman viết chẳng thuyết phục chút nào.
            “chỉ xin hai chữ bình an” là cách nói vần điệu thôi.
            Cũng có thể nói “chỉ xin hai tiếng bình an.”
            Như vậy, không hề có một định nghĩa rằng, “bình an” là 2 chữ.
            Ngữ pháp tiếng Việt đã có sự phân biệt rạch ròi “chữ” và “từ” rồi.
            VD: người ta nói “Từ láy” chứ có nói “chữ láy” đâu?!

    • Rat tiec la cai “BO CHINH-TRI” gom 16 ten hinh nhu khong biet xu-dung internet, va nhung bai viet rat can ho phai doc, can phai nhet vao oc nhu the nay da bi bon cap duoi chan lai roi…

      • Họ cực kỳ sợ Internet. Thứ biết gọi “Sự thật” là sự “Giả dối”!

  4. Sao ông André Mendras được Chủ tịch nước trao quyết định công nhận Công dân danh dự VN, mà GS Jonathan London chưa được nhỉ? Bất công quá!

    • Tôi nghĩ GS J.L. thích người dân Việt Nam trao danh hiệu ấy hơn.
      Và thực tế thì điều đó đã xảy ra.
      Chúc mừng Ngài J.L.!

Comments are closed.